Quy hoạch đô thị là gì? Hiện nay có những loại quy hoạch đô thị nào? Các yêu cầu và hành vi bị cấm trong quy hoạch đô thị là gì?. Hãy xem bài viết dưới đây!
1. Quy hoạch đô thị là gì?
Quy hoạch đô thị là việc tổ chức không gian, kiến trúc, cảnh quan đô thị, hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình hạ tầng xã hội và nhà ở nhằm tạo môi trường sống phù hợp cho người dân sinh sống trong đô thị, khu vực đô thị, được thể hiện thông qua đồ án quy hoạch đô thị. (khoản 4, mục 3 của Đạo luật Quy hoạch Thị trấn 2009)
Căn cứ quy định của Đạo luật quy hoạch thị trấn 2009, Đô thị được hiểu một cách đơn giản nhất, đây là hoạt động mà khu vực tập trung đông dân cư. Đồng thời, công tác quy hoạch đô thị sẽ được xác định là trung tâm chính trị, hành chính, kinh tế, văn hóa; có vai trò thúc đẩy sự phát triển kinh tế – xã hội của một quốc gia, vùng lãnh thổ hay địa phương.
Do đó, quy hoạch đô thị được định nghĩa chính xác như sau:Quy hoạch đô thị là việc tổ chức không gian, kiến trúc, cảnh quan đô thị, hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình hạ tầng xã hội và nhà ở nhằm tạo môi trường sống phù hợp cho người dân sống trong đô thị, được thể hiện thông qua đồ án quy hoạch đô thị.’
Quy hoạch đô thị, còn được gọi là quy hoạch vùng, quy hoạch thị trấn, quy hoạch đô thị hoặc quy hoạch nông thôn, là một quy trình chính trị và kỹ thuật tập trung vào phát triển và thiết kế sử dụng đất và môi trường xây dựng, bao gồm cơ sở hạ tầng không khí, nước và giao thông công cộng. trong và ngoài khu vực đô thị, chẳng hạn như mạng lưới giao thông, thông tin liên lạc và phân phối và khả năng tiếp cận của chúng.
Theo truyền thống, quy hoạch đô thị tuân theo cách tiếp cận từ trên xuống trong quy hoạch tổng thể về bố cục vật lý của các khu định cư. Mối quan tâm hàng đầu là phúc lợi công cộng, bao gồm các cân nhắc về hiệu quả, vệ sinh, bảo vệ và sử dụng môi trường, và tác động của các quy hoạch tổng thể đối với các hoạt động kinh tế và xã hội.
Theo thời gian, quy hoạch đô thị đã tập trung vào các vấn đề xã hội và môi trường, tập trung vào quy hoạch như một công cụ để cải thiện sức khỏe và hạnh phúc của cư dân trong khi vẫn duy trì các tiêu chuẩn bền vững. Phát triển bền vững đã được thêm vào như một trong những mục tiêu chính của tất cả các nỗ lực lập kế hoạch vào cuối thế kỷ 20, khi các tác động kinh tế và môi trường bất lợi của các mô hình lập kế hoạch trước đó đã giảm đi.
Tương tự, vào đầu thế kỷ 21, lập trường chính trị và pháp lý nhấn mạnh lợi ích của cư dân, doanh nghiệp và cộng đồng đã ảnh hưởng hiệu quả đến các nhà quy hoạch đô thị trong việc xem xét trải nghiệm, trải nghiệm và nhu cầu rộng hơn của cư dân trong quá trình lập kế hoạch.
2. Các loại quy hoạch đô thị
Theo khoản 1, mục 18 Luật quy hoạch đô thị 2009 (sửa đổi 2018), quy hoạch đô thị bao gồm các loại sau:
– Quy hoạch chung được lập cho các thành phố trực thuộc Trung ương, thị xã thuộc tỉnh, thành phố, thị trấn trực thuộc trung ương và khu đô thị mới.
Quy hoạch chung thành phố trực thuộc Trung ương cụ thể hóa các quy hoạch tỉnh lập trên thành phố trực thuộc Trung ương về tổ chức không gian, hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật, hạ tầng xã hội và nhà ở nhân dân.
– Quy hoạch phát triển các vùng lãnh thổ tại các thành phố, khu đô thị mới đang được xây dựng;
– Quy hoạch chi tiết lãnh thổ được thực hiện theo yêu cầu quy hoạch công trình công cộng, thị trấn hoặc nhu cầu đầu tư xây dựng.
Quy hoạch hạ tầng kỹ thuật là một nội dung trong đồ án phát triển chung, quy hoạch phát triển, quy hoạch chi tiết; đối với thành phố trực thuộc Trung ương, quy hoạch hạ tầng kỹ thuật được lập riêng trong đồ án quy hoạch chuyên ngành hạ tầng kỹ thuật.
(khoản 2, mục 18 của Đạo luật Quy hoạch Thị trấn 2009)
3. Yêu cầu quy hoạch thị trấn
Mục 6 của Đạo luật Quy hoạch Thị trấn 2009 (sửa đổi năm 2018) đặt ra các yêu cầu quy hoạch thị trấn như sau:
– Quy định chi tiết về quy hoạch hệ thống đô thị và nông thôn, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh; phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế – xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh; phù hợp với quy hoạch quốc gia, quy hoạch vùng, quy hoạch tỉnh; bảo đảm công khai, minh bạch, kết hợp hài hòa lợi ích quốc gia, lợi ích công cộng và lợi ích cá nhân.
– Dự báo khoa học, đáp ứng yêu cầu thực tế và phù hợp với xu thế phát triển đô thị; tuân thủ quy định về quy hoạch đô thị và các quy định khác có liên quan.
– Bảo vệ môi trường, ngăn chặn các nguy cơ ảnh hưởng đến cộng đồng, tôn tạo cảnh quan, bảo tồn di tích lịch sử văn hóa và nét đặc trưng của địa phương thông qua đánh giá môi trường chiến lược trong quá trình lập quy hoạch.
– Khai thác, sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, hạn chế sử dụng đất nông nghiệp, sử dụng đất đô thị tiết kiệm, hiệu quả để tạo nguồn lực phát triển đô thị, tăng trưởng kinh tế, bảo đảm an ninh, xã hội, quốc phòng, an ninh và phát triển bền vững.
– Bảo đảm tính đồng bộ về không gian kiến trúc, hệ thống hạ tầng xã hội, hạ tầng kỹ thuật đô thị và không gian ngầm; phát triển hài hòa giữa các đô thị.
– Đáp ứng nhu cầu về nhà ở, y tế, giáo dục, văn hóa, thể thao, thương mại, công viên, cây xanh, mặt nước và các hoạt động hạ tầng xã hội khác.
– Đáp ứng nhu cầu sử dụng hạ tầng kỹ thuật, bao gồm hệ thống giao thông, cấp năng lượng, chiếu sáng công cộng, cấp nước, thoát nước, xử lý chất thải, thông tin liên lạc và hạ tầng kỹ thuật khác.
Bảo đảm sự kết nối, liên kết giữa các hệ thống hạ tầng kỹ thuật trong đô thị và sự liên kết với các điểm hạ tầng kỹ thuật vùng, quốc gia và quốc tế.
4. Những hành vi bị cấm trong quy hoạch đô thị
Các hành vi bị cấm theo mục 16 của Đạo luật Quy hoạch Thị trấn 2009 (sửa đổi năm 2018) bao gồm:
– Không thực hiện trách nhiệm tổ chức lập quy hoạch đô thị.
– Chọn đơn vị tư vấn quy hoạch đô thị không đủ năng lực.
– Lập, thẩm định, phê duyệt, điều chỉnh đồ án quy hoạch thị trấn vi phạm quy định của Luật Quy hoạch thị trấn.
Can thiệp trái pháp luật vào hoạt động quy hoạch đô thị.
– Từ chối cung cấp thông tin, trừ trường hợp thông tin thuộc bí mật nhà nước; cung cấp thông tin sai sự thật về quy hoạch đô thị.
Cố tình vi phạm đồ án quy hoạch thị trấn đã được phê duyệt.
– Phá hoại không gian, kiến trúc, cảnh quan đô thị.
– Đặt sai mốc giới; phá hoại và làm biến dạng ranh giới đô thị.
– Cản trở, gây khó khăn cho việc lập và thực hiện quy hoạch đô thị.
Trong nhiều trường hợp, cần phải có sự can thiệp của các chuyên gia quy hoạch đô thị. Chúng bao gồm các dự án cơ sở hạ tầng liên quan đến việc tiếp cận nước, nước thải hoặc giao thông; nỗ lực giải quyết các vấn đề liên quan đến nhà ở, di chuyển đô thị, tổ chức không gian công cộng và quyền đô thị; và các chương trình thể chế yêu cầu hỗ trợ cho chính quyền địa phương liên quan đến việc cung cấp các dịch vụ công cộng hoặc quản lý không gian.