Đô thị phát triển ở Việt Nam đóng góp khoảng 70% GDP cả nước để thực hiện mục tiêu đến năm 2030 Việt Nam trở thành nước đang phát triển có nền công nghiệp tiên tiến, thu nhập trung bình cao vào năm 2045. Là một nước phát triển có thu nhập cao, điều này là cần thiết để phát triển nhanh hơn. phát triển hiệu quả hơn các đô thị để làm động lực, hỗ trợ tích cực cho sự phát triển của vùng và địa phương.
Phát triển đô thị hay đô thị hóa?
Phát triển đô thị là sự mở rộng tổng thể về kinh tế, văn hóa, xã hội, không gian, cũng như môi trường sống của đô thị; nội dung của phát triển bao gồm phát triển vật chất và phi vật chất. Phát triển đô thị khác với đô thị hóa ở chỗ phát triển đô thị chỉ được xem xét cho từng thành phố riêng lẻ, trong khi đô thị hóa được xem xét cho toàn bộ mạng lưới đô thị.
Theo nghiên cứu của nhiều nhà khoa học trên thế giới và ở Việt Nam, đô thị hóa là xu thế tất yếu của toàn cầu. Đô thị hóa không chỉ là quá trình phát triển riêng lẻ của một lãnh thổ đô thị về quy mô, dân số mà còn liên quan đến những thay đổi về kinh tế – xã hội và môi trường tự nhiên của hệ thống đô thị.
Mức độ đô thị hóa là tỷ lệ phần trăm dân số đô thị trên tổng dân số của khu vực, tùy thuộc vào các mức độ khác nhau như mức độ đô thị hóa của cả nước, toàn vùng, toàn tỉnh, thành phố, thị xã, thành phố.. ., thường được ước tính tại một thời điểm nhất định. Mức độ đô thị hóa là chỉ tiêu thể hiện tốc độ tăng, giảm của thời kỳ sau so với thời kỳ trước.
Đặc điểm chính của đô thị hóa
Dân số đô thị trên thế giới đang tăng nhanh. Theo Ngân hàng Thế giới (WB), năm 1920 chỉ có 266,4 triệu người thành thị, chiếm 14,3% tổng dân số thì đến năm 1960 con số này đã tăng lên 760,3 triệu người, chiếm 25,4% tổng dân số. Mức độ đô thị hóa của thế giới năm 2000 là gần 50%, năm 2018 là 55%, đến năm 2050 đạt khoảng 62,5% với quy mô dân số khoảng 5,107 triệu người. Số đô thị lớn tăng nhanh, dân số đô thị tập trung cao ở các đô thị lớn.
Năm 1950, riêng New York (Mỹ) đã có dân số trên 10 triệu người, thành phố lớn thứ 15 là Berlin (Đức) chỉ có 3,3 triệu người. Năm 2005 và 2011, thế giới lần lượt có 20 và 26 thành phố trên 10 triệu dân. Năm 2015, tính cả các vùng lân cận, thế giới có 32 thành phố (và vùng đô thị) trên 10 triệu dân. Đến cuối năm 2016, con số này là 36 đô thị.
Ở Việt Nam, các đô thị nhìn chung có tốc độ tăng dân số vừa phải, các thành phố nhỏ có tốc độ tăng dân số chậm và hai thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh có tốc độ tăng dân số nhanh. Trong vòng hơn 10 năm trở lại đây, dân số Hà Nội tính đến tháng 4/2009 là 6.451.909 và đến tháng 4/2019 là 8.053.663; Dân số Thành phố Hồ Chí Minh tính đến tháng 4 năm 2009 là 7.162.864 và tính đến tháng 4 năm 2019 là 8.993.082. Cả hai thành phố đều có mức tăng dân số khoảng 25% sau 10 năm so với năm 2009. Con số dân số trên của cả hai thành phố không bao gồm những người sống và làm việc trong khu vực phi chính thức.
Sự phát triển đô thị đã tạo ra các vùng đô thị hóa cao.
Hai vùng đô thị lớn đang hình thành và phát triển ở Việt Nam: Vùng đô thị Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Vùng đô thị Hà Nội: bao gồm thành phố Hà Nội và 9 tỉnh lân cận: Hà Nam, Hưng Yên, Hải Dương, Bắc Ninh, Vĩnh Phúc, Hòa Bình, Phú Thọ, Thái Nguyên, Bắc Giang.
Tổng diện tích toàn huyện khoảng 24.314,7 km.2 (chiếm 7,3% diện tích tự nhiên cả nước), dự báo dân số toàn vùng đến năm 2030 khoảng 21 – 23 triệu người, trong đó dân số đô thị khoảng 11,5 – 13,8 triệu người, dân số nông thôn khoảng 9,2 – 9,5 triệu người. triệu người; khoảng 12 – 13,2 triệu lao động; mức độ đô thị hóa khoảng 55% – 60%.
Khu vực Hồ Chí Minh: gồm TP.HCM và 7 tỉnh lân cận là Bà Rịa – Vũng Tàu, Bình Dương, Bình Phước, Tây Ninh, Long An, Đồng Nai, Tiền Giang.
Tổng diện tích toàn vùng khoảng 30.404 km.2 (chiếm 9,2% diện tích tự nhiên cả nước), dự báo dân số toàn vùng khoảng 24 – 25 triệu người vào năm 2030, trong đó dân số đô thị khoảng 18 – 19 triệu người, dân số nông thôn khoảng 6 triệu người – 7 triệu người; khoảng 18-19 triệu lao động; mức độ đô thị hóa khoảng 70% – 75%.
Ở Việt Nam, số lượng đô thị tăng nhanh và phân bố không đều trên cả nước, chất lượng đô thị giữa các điểm dân cư và giữa các vùng trong từng loại đô thị còn rất khác nhau. Mức độ đô thị hóa cũng có sự khác biệt đáng kể giữa các vùng; vùng Đông Nam Bộ là trên 72%, vùng Trung du và Tây Nguyên phía Bắc là dưới 22%.(16). Quy mô các đô thị cũng rất khác nhau, trong 25 đô thị lớn nhất nước ta chỉ có Hà Nội và TP.HCM là khác.
Đô thị hóa ở Việt Nam được đặc trưng bởi sự gia tăng về tốc độ cũng như sự gia tăng về diện tích và dân số. Tuy nhiên, những đặc điểm này chủ yếu thể hiện ở hai thành phố lớn là Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh; Tỷ lệ mở rộng đô thị của hai thành phố này lần lượt là 3,8% và 4%.
Phát triển đô thị trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại
Đô thị hóa và di cư:
Một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy quá trình đô thị hóa là di cư từ nông thôn ra thành thị liên quan đến các hoạt động kinh tế như việc làm, sản xuất công nghiệp và trao đổi kinh tế. Quá trình di cư không chỉ thay đổi nơi ở mà cả nghề nghiệp của họ. Cơ hội việc làm và các điều kiện văn hóa xã hội như giáo dục, y tế, nhà ở, thông tin liên lạc, điều kiện làm việc và giải trí kích thích di cư từ nông thôn ra thành thị. Các thành phố đòi hỏi nhiều lao động công nghiệp hơn nông nghiệp và các yếu tố văn hóa xã hội ngày càng đóng vai trò quan trọng trong di cư từ nông thôn ra thành thị.
Tại Việt Nam, các khu công nghiệp là điểm đến hấp dẫn nhất đối với người di cư, đặc biệt là các khu công nghiệp ở Đông Nam Bộ và Đồng bằng sông Hồng.
Đô thị hóa với lối sống thành thị:
Lối sống bao gồm những điều kiện và hình thức hoạt động sống của con người mang tính đặc thù của xã hội, giai cấp và tầng lớp. Quá trình chuyển đổi từ lối sống nông thôn sang thành thị là phổ biến ở tất cả các quốc gia. Quá trình này có hai hình thức:
- 1- Sự chuyển đổi sang lối sống thành thị của những người nhập cư từ nông thôn;
- 2- Quá trình mở rộng ảnh hưởng của lối sống thành thị đến nông thôn. Văn hóa và nếp sống đô thị xét về mặt lịch sử và trình độ phát triển kinh tế – xã hội là những bước tiến của nền văn minh công nghiệp.
Lối sống đô thị có những đặc điểm nhất định. Dân số đô thị là dân số dễ thay đổi môi trường sống và làm việc do tính chất của sản xuất công nghiệp; họ có nhu cầu giao tiếp cao, giao tiếp đa dạng và phức tạp hơn so với dân cư nông thôn.
Lối sống đô thị phụ thuộc nhiều vào các dịch vụ công cộng và nhu cầu ngày càng tăng của người dân. Nhu cầu về văn hóa, giáo dục của cư dân thành phố ngày càng lớn.
Đô thị hóa với môi trường đô thị:
Tăng trưởng đô thị tạo ra một số tác động tích cực đến môi trường và con người. Mặt khác, tốc độ phát triển đô thị làm cho môi trường của hầu hết các thành phố bị suy thoái nhanh chóng, ô nhiễm nước và không khí, chất thải gia tăng, trong đó có các chất độc hại.
Sự suy giảm chất lượng môi trường đô thị đã làm gia tăng dịch bệnh, sức khỏe kém và mất an toàn cho người dân, đặc biệt là người nghèo, giảm năng suất lao động ở các thành phố. Thiệt hại không thể đảo ngược đối với hệ sinh thái tự nhiên.
Ở một số nước đang phát triển, các chính sách kinh tế của họ nhấn mạnh đến tăng trưởng kinh tế mà không xem xét tác động của ô nhiễm gây thiệt hại đáng kể cho môi trường.
Quá trình đô thị hóa do bùng nổ dân số, công nghiệp phát triển yếu, sự phát triển không đồng đều giữa các vùng trong nước và sự suy giảm của nông nghiệp, nông thôn làm cho mâu thuẫn giữa thành thị và nông thôn, giữa vùng lạc hậu và vùng phát triển ngày càng sâu sắc.
Quá trình đô thị hóa thường dẫn đến quá tải hạ tầng đô thị, mất cân bằng sinh thái và phát triển kinh tế – xã hội không cân đối với sự gia tăng dân số, khi việc di cư từ các thị trấn nhỏ, vừa và nông thôn đến các thành phố lớn không thể kiểm soát được. Hệ thống hạ tầng kỹ thuật và hạ tầng xã hội đô thị xuống cấp nhanh chóng, nhất là vấn đề nhà ở và vệ sinh môi trường ngày càng khó khăn, nảy sinh nhiều vấn đề xã hội. Đô thị hóa thiếu kiểm soát sẽ tạo ra sự phát triển giả tạo, gây ra tình trạng quá tải ở các thành phố lớn và nghèo đói đô thị.
Đồ án quy hoạch đô thị là gì?
Về khái niệm dự án đầu tư phát triển đô thị, theo quy định tại khoản 8 Điều 2 Nghị định số 11/2013/NĐ-CP ngày 14/01/2013 của Chính phủ về Quản lý đầu tư phát triển đô thị, dự án đầu tư phát triển đô thị Đối với Phát triển đô thị là dự án đầu tư do cơ quan có thẩm quyền quyết định và công bố nhằm xây dựng một đối tượng hoặc một tập hợp đối tượng trong khu vực đô thị hóa, bao gồm:
Dự án đầu tư xây dựng khu đô thị: Là dự án đầu tư xây dựng các công trình (có thể bao gồm nhà ở, hạ tầng kỹ thuật, công trình công cộng,…) trên khu đất được giao trong khu vực phát triển đô thị theo quy hoạch đã được Bộ Xây dựng phê duyệt. quan có thẩm quyền.
– Dự án đầu tư xây dựng trong môi trường đô thị: Dự án đầu tư xây dựng mới; hoặc mở rộng, cải tạo, trang trí các công trình kiến trúc, hạ tầng kỹ thuật.
Khu phát triển đô thị là gì?
Khu vực phát triển đô thị được quy định tại Khoản 1 Điều 2 Nghị định số 11/2013/NĐ-CP về Quản lý đầu tư phát triển đô thị như sau:
Khu vực phát triển đô thị là khu vực được dành để đầu tư phát triển đô thị trong một thời kỳ nhất định. Khu phát triển đô thị bao gồm: khu phát triển đô thị mới, khu phát triển đô thị mở rộng, khu cải tạo, khu bảo tồn, khu tái thiết đô thị, khu chức năng chuyên ngành.
Khu vực phát triển đô thị có thể bao gồm một hoặc nhiều khu chức năng đô thị. Khu vực phát triển đô thị có thể thuộc địa giới hành chính của một hoặc nhiều tỉnh, thành phố. Khu phát triển đô thị có thể bao gồm một hoặc nhiều dự án đầu tư phát triển đô thị.
Trên đây là quy định đối với khu vực phát triển đô thị. Để hiểu rõ hơn, bạn tham khảo thêm tại Nghị định 11/2013/NĐ-CP.
Quy hoạch phát triển đô thị là gì?
“Quy hoạch đô thị là việc tổ chức không gian, kiến trúc, cảnh quan đô thị, hệ thống công trình hạ tầng kỹ thuật, công trình hạ tầng xã hội và nhà ở nhằm tạo môi trường sống phù hợp cho người dân sống trong đô thị, được thể hiện thông qua đồ án quy hoạch đô thị.’
Quy hoạch đô thị, còn được gọi là quy hoạch vùng, quy hoạch thị trấn, quy hoạch đô thị hoặc quy hoạch nông thôn, là một quy trình chính trị và kỹ thuật tập trung vào phát triển và thiết kế sử dụng đất và môi trường xây dựng, bao gồm cơ sở hạ tầng không khí, nước và giao thông công cộng. trong và ngoài khu vực đô thị, chẳng hạn như mạng lưới giao thông, thông tin liên lạc và phân phối và khả năng tiếp cận của chúng.
Không gian phát triển đô thị là gì?
Không gian đô thị là không gian bao gồm các vật thể kiến trúc đô thị, cây xanh, mặt nước trong đô thị có ảnh hưởng trực tiếp đến cảnh quan đô thị.